Nhiệm vụ lịch sử của thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam bao gồm hai nội dung lớn: Một là, xây dựng nền tảng vật chất và kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội, xây dựng các tiền đề kinh tế, chính trị, văn hóa, tư tưởng cho chủ nghĩa xã hội. Hai là, cải
Viện y học ứng dụng Việt Nam - Ứng dụng y học vì sức khỏe người Việt Nam. hãy đặt gót chân xuống đất trước; Ung thư tuyến giáp ở người trẻ tuổi; 8 lợi ích sức khỏe ấn tượng của táo;
Tại FPT Shop - một trong những đại lý ủy quyền cấp cao của Apple tại Việt Nam, iPhone 14 được bán với 3 mức giá là 25 triệu (bản 128GB), 28 triệu (bản 256GB) và 34 triệu (bản 512GB). Máy được bảo hành 2 năm, thêm 1 năm so với tiêu chuẩn của nhà sản xuất. Giá của iPhone 14
Vào tháng tư năm 2011, trường đại học quốc tế RMIT Việt Nam được vinh dự lần thứ ba tổ chức lễ kỷ niệm Ngày Trái Đất để chào mừng lần năm thứ 41 của Ngày Trái Đất. Ngày trái đất năm 2011 sẽ là một cơ hội để kết nối những người trẻ tuổi tham gia, những
01 Đề bài: . Câu hỏi 6. Quan sát biểu đồ Hình 7.7 và nhận xét về diện tích, độ che phủ rừng ở Việt Nam qua các năm và tác động của những chính sách của chính phủ trong việc bảo vệ rừng?
.
20 June 2016 Đất đai Là một quốc gia có dân số đông và nguồn lực đất đai hạn chế, Việt Nam có diện tích đất nông nghiệp bình quân khoảng 0,3 ha/người, thuộc hàng thấp nhất trên thế giới 1. Phương thức canh tác truyền thống dựa trên quy mô nhỏ, trung bình mỗi hộ được nhận khoảng 0,156 ha thấp hơn 1/3 mức bình quân ở các nước trong khu vực như Thái Lan và Cam-pu-chia 2. Tăng trưởng kinh tế và đô thị hóa nhanh chóng của Việt Nam trong hai thập kỷ gần đây đã góp phần chuyển đổi khoảng một triệu ha đất nông nghiệp thành đất thương mại và đất ở3. Chuyển đổi mục đích sử dụng đất đã dẫn đến xu hướng gia tăng tranh chấp đất đai 4 và góp phần khắc sâu khoảng cách giữa thành thị và nông thôn 5. Chính sách và quản lí nhà nước về đất đaiTheo Hiến pháp, đất đai và các tài nguyên thiên nhiên khác là “tài sản công thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý” 6. Quốc hội ban hành luật và các nghị quyết về đất đai; quyết định quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất cấp quốc gia. Bộ Tài nguyên Môi trường Bộ TNMT là cơ quan thuộc chính phủ chịu trách nhiệm xây dựng và thực thi các chính sách về đất đai. Với từng giai đoạn, Ban Chấp hành Trung ương Đảng ra nghị quyết định hướng cho việc đổi mới chính sách, pháp luật về đất công tác giám sát về đất đai, quốc hội thực hiện quyền tối cao. Quyền giám sát về đất đai cũng được trao cho Mặt trận Tổ quốc, hội đồng nhân dân7 và Liên hiệp các hội Khoa học Kỹ thuật Việt Nam VUSTA,8 và người dân. Liên hiệp các hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam thực hiện chức năng tư vấn, phản biện và giám định liên quan đến đất đai đất đai hiện hành của Việt Nam được thông qua năm 201310 dựa trên sửa đổi Luật đất đai 2003. Dưới Luật này, Bộ Tài nguyên và Môi trường đã ban hành một loạt văn bản dưới luật hướng dẫn việc thi hành, bồi thường, tái định cư và định giá đất 11. Một số điểm chính của Luật Đất 2013 bao gồmTăng cường phân quyền quản lý nhà nước về đất đai cho cấp tỉnh và huyện, trong đó có công tác lập quy hoạch sử dụng đất và định giá đất phân cho cấp tỉnh điều 114.Ưu tiên giao đất, cho thuê đất đối với người dân tộc thiểu số không có đất hoặc thiếu đất sản xuất điều 133.Tạo không gian cho công dân và các tổ chức quần chúng tham gia giám sát quy hoạch sử dụng đất điều 43, chuyển đổi mục đích sử dụng đất điều 69 và quản lý đất đai điều 198-199.Các báo cáo nghiên cứu của World Bank cho thấy thực tiễn công khai thông tin trong quản lý đất đai ở Việt Nam giai đoạn 2010-2014 đã có nhiều cải thiện , tuy nhiên mức độ công khai chưa đáp ứng yêu cầu của pháp những năm gần đây, sự quan tâm của các tổ chức xã hội đối với chính sách về đất đai ngày càng gia tăng. Hiện có ba mạng lưới liên quan đến đất đai duy trì hoạt động Liên minh Đất đai Landa, Mạng lưới Đất Rừng LandNet, và Liên minh Đất Rừng Forland. Phân loại đất và các quyền hưởng dụng Tính đền hết năm 2013, Việt Nam có 81% diện tích là đất nông nghiệp, trong đó đất trồng trọt chiếm 35%, đất rừng 45%, diện tích nuôi trồng thủy sản 1%13. Trong đất trồng trọt, 3,8 triệu ha chiếm khoảng 35% là đất chuyên canh lúa 14. Diện tích đất trồng lúa giảm nhẹ trong giai đoạn 2011-201515, theo quy hoạch sử dụng đất đến 2020 sẽ giảm thêm khoảng 52 nghìn ha phục vụ phát triển cơ sở hạ tầng và chuyển đổi cơ cấu cây trồng thích ứng với biến đổi khí hậu, thiên tai 16. Các tác động môi trường nêu trên, cùng với nạn phá rừng và việc xây dựng các đập thủy điện ngày càng ảnh hưởng tới đất nông nghiệp ven biển, trong đó có hơn ha ở đồng bằng sông Cửu Long nước giao, cho thuê đất cho các cá nhân, tổ chức thông qua việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất GCNQSDĐ18. GCN QSDĐ có thể được trao đổi, chuyển nhượng, thế chấp, cho thuê và được thừa kế. Các quyền thay đổi được cấp cho các loại đất khác nhau. Đất ở được phân bổ không xác định thời hạn; GCN QSDĐ nông nghiệp “sổ đỏ” và đất rừng trong thời hạn 50 tờ này có giá trị pháp lý trong các giao dịch trao đổi, chuyển nhượng, thế chấp, cho thuê, và thừa kế. Mỗi loại đất gắn với các quyền và thời hạn khác nhau. Đất ở không quy định thời hạn; đất nông nghiệp có sổ đỏ và đất lâm nghiệp có kỳ hạn tối đa 50 năm 19. Người dân không được tự ý chuyển đổi mục đích sử dụng đất nông nghiệp nếu không được cấp phép 20. Quyền khai thác lâm sản trên đất lâm nghiệp được quy định chặt chẽ, đặc biệt trong vấn đề khai thác tích rừngRừng được xác định bởi đồng thời hai yếu tố, có cây che phủ và không bị sử dụng cho mục đích khác ngoài lâm nghiệp. Cây rừng có độ cao tối thiểu 5m. Diện tích rừng bao gồm cả những khu vực rừng tái sinh tuy cây chưa đạt độ cao 5m nhưng có triển vọng đạt độ che phủ 10% và chiều cao cây 5m, vì đây là những vùng tạm thời không còn chức năng dự trữ do tác động của con người hoặc nguyên nhân khách quan, song có triển vọng tái trồng cây lâu nămLà đất canh tác lâu dài, không cần trồng mới sau mỗi vụ thu hoạch, như đất canh tác ca-cao, cà phê, cao su. Đất trồng cây lâu năm bao gồm cả đất có cây bụi, đất trồng cây ăn quả, cây cho hạt, cây thân leo, nhưng không bao gồm đất trồng cây lấy có thể canh tácTheo định nghĩa của FAO, đất có thể canh tác bao gồm đất trồng tạm thời các khu vực xen canh chỉ tính một lần, các đồng cỏ tạm thời để chăn thả gia súc hay lấy cỏ, đất vườn và đất bỏ hoang tạm thời, không bao gồm đất bị bỏ hoang do tập quán du canh. Dữ liệu về “Đất có thể canh tác” không có nghĩa là đất có tiềm năng trồng đất đai hiện hành không thừa nhận các hình thức sở hữu đất theo phong tục tập quán và các cộng đồng thôn bản không có tư cách pháp lý để tham gia các giao dịch về đất đai. Điều này khác với thực tiễn ở nhiều nơi người dân thiểu số coi đất đai đặc biệt là đất rừng là tài sản chung của thôn bản. Tuy nhiên, Luật Bảo vệ và Phát triển Rừng 2004 có thừa nhận sự tham gia của cộng đồng trong quản lý đất rừng 21. Tính tới năm 2015, chỉ có 2% đất rừng được giao cho các cộng đồng, so với 26% diện tích được giao cho cá nhân; phần lớn còn lại được quản lý bởi các nông lâm trường công ty lâm nghiệp, các ban quản lý hoặc chính quyền địa trình cấp GCNQSDĐ của Chính phủ triển khai trong những năm 1990 sau khi Luật đất đai 1993 ra đời được đánh giá là một trong những nỗ lực về cải cách đất đai nhanh và mạnh trên thế giới23. Việc cấp GCNQSDĐ được đẩy nhanh ở một số nơi song ở nhiều nơi khác tốc độ triển khai còn chậm chạp. Tính đến năm 2013, Nhà nước đã cấp khoảng 38 triệu GCNQSDĐ. Ít nhất 11 tỉnh miền Nam hầu như đã hoàn thành việc cấp giấy này, trong khi ở nhiều tỉnh thành khác, tỉ lệ này đạt dưới 70%.24. Cho đến cuối 2015, Ngân hàng Thế giới và các nhà tài trợ quốc tế khác đã triển khai nhiều gói hỗ trợ Việt Nam thúc đẩy việc cấp GCNQSDĐ25. Trong tiếp cân về đất đai, phụ nữ vẫn còn chịu thiệt thòi do hệ lụy phân biệt đối xử trong thừa kế của chế độ phụ hệ 26. Tính đến năm 2012, chỉ có 36% GCNQSDĐ nông nghiệp do phụ nữ đứng tên hoặc cùng đứng tên. Tỉ lệ này ở phụ nữ dân tộc thiểu số thậm chí còn thấp hơn, chỉ 21%.Ô nhiễm và hoang hóa đất đai do bom mìn và vật liệu nổ sót lại từ chiến tranh phần nào đã được giải quyết trong những thập kỷ qua nhờ sự vào cuộc của quân đội và hỗ trợ từ quốc tế.. Các tỉnh miền Trung quanh khu vực phi quân sự trước đây và một số vùng biên giới là những nơi chịu ảnh hưởng nặng nề Chất độc màu da cam Mỹ đã rải lên hơn 2,2 triệu ha đất đai miền Nam Việt Nam để lại những hậu quả nặng nề về sức khỏe và tác động môi trường mang tính cục bộ. Song, theo một số phân tích, đất đai ở những nơi bị rải bề mặt không bị ảnh hưởng chất độc tồn dư về lâu dài28. Thu hồi đất đaiTheo Hiến pháp và Luật đất đai 2013, Nhà nước có quyền thu hồi, trưng dụng đất đã giao cho người dân trong trường hợp cần thiết theo luật định, phục vụ mục đích quốc phòng, an ninh hay “phát triển kinh tế – xã hội vì lợi ích quốc gia, công cộng” 29. Quy định này chặt chẽ hơn so với Luật 2003 cho phép Nhà nước thu hồi đất để phát triển kinh tế nói chung 30. Ước tính đã có khoảng 10% dân số bị ảnh hưởng bởi chủ trương này theo luật cũ 2003. Các tín hiệu ban đầu cho thấy luật sửa đổi 2013 đã góp phần làm giảm tỉ lệ phát sinh các vụ việc mới về thu hồi đất UNIDO. Created by ODI June 2016. Licensed under CC BY-SA Explore the đến hết tháng 5/2017, Việt Nam có 325 khu công nghiệp bao gồm cả khu công nghiệp, khu chế xuất và 3 đặc khu kinh tế32. Chỉ có một số ít trường hợp đất nông nghiệp chuyển đổi quy mô lớn được giao cho nhà đầu tư nước ngoài 33; còn lại doanh nghiệp Nhà nước giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế và quản lý hơn 2,8 triệu ha đất nông nghiệp và đất rừng 34. Giải quyết tranh chấp đất đai Bộ TNMT và Quốc hội giám sát số vụ khiếu nại tố cáo về đất đai hàng năm. Phần lớn trong số đó liên quan đến tranh chấp đất đai. Riêng Bộ TN&MT, đơn khiếu nại và tố cáo về đất đai chiếm đến 98% số lượng đơn thư nhận được trong năm 201435. Theo báo cáo Quốc hội, trong hơn một triệu đơn thư khiếu nại tố cáo về đất đai giai đoạn 2003-2012, chỉ có “khoảng một nửa số đơn thư được xử lý thỏa đáng hay phần nào thỏa đáng”, phần lớn số đơn thư này được chuyển về chính quyền các cấp xử lý 36 theo quy định của Luật Khiếu nại 37. Chính quyền địa phương thường giải quyết các tranh chấp giữa các công dân với nhau, nhưng không giải quyết được các tranh chấp giữa công dân và các cơ quan nhà thực tế, công dân bị ảnh hưởng thường nộp khiếu nại về tranh chấp đất đai lên các cơ quan cấp cao. Nếu đơn thư không được giải quyết như mong muốn, họ có thể sẽ nhờ đến truyền thông hoặc tiến hành hoạt động cộng đồng, ví dụ như biểu tình trước văn phòng cơ quan chức năng ở Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh, và một số tỉnh thành. Các lực lượng an ninh cho phép một số cuộc biểu tình diễn ra, nhưng đôi khi can thiệp với vũ lực nếu như tranh chấp lan rộng hay để tiến hành giải phóng mặt bằng ngay tức thì39. Vụ tranh chấp đất đai nổi bật nhất trong những năm gần đây là vụ tước đoạt đất Đoàn Văn Vươn ở quận Tiên Lãng, Hải Phòng40, xây dựng khu đô thị mới Ecopark ở ngoại thành Hà Nội 41 hay ở Đồng Tâm, Hà Nội 42. Phần lớn các vụ tranh chấp đất đai xảy ra do không thực hiện đúng các thủ tục thu hồi đất, mức bồi thường quá thấp, hay có dấu hiệu tham nhũng43. Chỉ có số ít các vụ tranh chấp được đưa ra tòa44; trong khi đó, báo chí truyền thông cũng đã góp phần quan trọng thúc đẩy trách nhiệm giải trình của các doanh nghiệp và cơ quan đơn vị nhà nước sử dụng đất. Cập nhật tháng 12/2017
Vấn đề tranh chấp đất đai ở Việt Nam là vấn đề đã vượt ra ngoài biên giới nước này, được sự quan tâm sâu sắc của các tổ chức truyền thông, hoạt động nhân quyền, các tổ chức chính trị cũng như các cơ quan quốc tế khác. Mới đây, trang web Marxism của tổ chức chính trị “Khuynh hướng Mác xít Quốc tế” International Marxist Tendency đăng một bài viết về tình hình tranh chấp đất đai ở Việt Nam. Mở đầu bài viết hôm 26 tháng năm 2023, tác giả Donovan Eggi cho rằng trong thời gian gần đây, tranh chấp đất đai đã gia tăng ở Việt Nam, khi các tập đoàn lớn kiếm được lợi nhuận khổng lồ dựa trên bất động sản xây dựng trên đất lấy của người dân bằng sự hỗ trợ của các quan chức chính quyền địa phương. Theo tác giả, “chính điều này đã dẫn đến bạo loạn dữ dội, biểu tình, phản đối và xung đột với cảnh sát.” Bằng cái nhìn của chủ nghĩa cộng sản thời kì Mác, tác giả đặt vấn đề đất đai trong một bức tranh lớn hơn được gọi là hiện tượng “đấu tranh giai cấp” ở Việt Nam ngày nay và đưa ra “giải pháp” là Việt Nam phải xây dựng chủ nghĩa cộng sản “chân chính” “Khi cuộc khủng hoảng của chủ nghĩa tư bản Việt Nam ngày càng trầm trọng, cùng với sự gia tăng căng thẳng trong nội bộ Đảng Cộng sản Việt Nam ĐCSVN, tranh chấp đất đai sẽ trở thành tâm điểm của cuộc đấu tranh giai cấp trong thời kỳ tới. Chỉ có một cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa do giai cấp công nhân liên minh với giai cấp nông dân lãnh đạo mới có thể giành được một chương trình ruộng đất đáp ứng thực sự nhu cầu của người nghèo ở nông thôn.” Tác giả điểm lại những sự kiện liên quan đến tranh chấp đất đai như biến cố Thái Bình năm 1987-1997, cuộc nổi dậy của người Thượng năm 2001, cuộc giao tranh ở Đoàn Văn Vươn năm 2009, cuộc biểu tình Văn Giang vào tháng 4 năm 2012, cuộc tranh chấp đất đai ở xã Đồng Tâm huyện Mỹ Đức, Hà Nội dẫn đến đổ máu năm 2021. Tác giả kết luận “Các cuộc biểu tình dẫn đến bạo lực liên quan đến quyền sử dụng đất đã nổ ra xung quanh các thành phố lớn như Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh Sài Gòn, Đà Nẵng, cùng nhiều thành phố khác. Với việc đất đai bị biến thành hàng hóa, tranh chấp đất và trục xuất người dân khỏi đất đai của họ ngày càng trở nên phổ biến, dẫn đến bạo loạn, phản đối và sự tức giận lan rộng trong công chúng.” Tác giả phê phán Nhà nước Việt Nam ngày nay bằng quan điểm Mác xít “Thay vì quản lý đất đai thay cho công nhân và nông dân, chính quyền Việt Nam tích cực hỗ trợ và tiếp tay cho giai cấp thống trị để trục lợi trên sự thiệt hại của quần chúng. Điều này đặc biệt đúng khi nói đến đất đai.” Giải thích cho bức tranh nghiêm trọng nói trên của vấn đề đất đai ở Việt Nam, tác giả Mác-xít này cho rằng nguyên nhân là do Nhà nước Việt Nam quay trở lại với chủ nghĩa tư bản. Hiến pháp Việt Nam quy định rằng tất cả đất đai thuộc sở hữu toàn dân và được quản lý bởi Nhà nước. Nhà nước không công nhận quyền sở hữu đất tư nhân nhưng lại công nhận “quyền sử dụng đất” do chính quyền địa phương cấp phép. Và quyền sử dụng đất này lại có thể được mua bán như hàng hóa, do đó, đất đai trở thành hàng hóa và đem lại lợi nhuận, giống như chủ nghĩa tư bản. Tác giả cho rằng trong lịch sử, Đảng Cộng sản Việt Nam “đã quét sạch chủ nghĩa đế quốc Mỹ và xóa bỏ chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa địa chủ trên toàn lãnh thổ Việt Nam vào năm 1975, đồng thời giải phóng rất nhiều nông dân Việt Nam khỏi ách thống trị của địa chủ.” Nhưng sau đó, đến 1986, ĐCSVN lại thay đổi chính sách, tư nhân hóa một phần lớn nền kinh tế, đặt xã hội Việt Nam dưới sự chi phối của “thị trường vô chính phủ, sở hữu tư nhân và động cơ lợi nhuận.” Điều này khiến cho “mặc dù các điều khoản pháp lý về quyền sở hữu đất đai vẫn không thay đổi, nhưng nền kinh tế thị trường có nghĩa là “Quyền sử dụng đất” cũng trở thành hàng hóa có thể mua và bán, nghĩa là quyền sở hữu đất đai tư nhân hiện đang tồn tại ở Việt Nam.” Tác giả kết luận rằng “chỉ có chủ nghĩa xã hội chân chính mới giải quyết được vấn đề ruộng đất” “Đó là một hậu quả bi thảm của sự phục hồi tư bản chủ nghĩa, do chế độ ĐCSVN chỉ đạo, rằng những thành tựu to lớn của công nhân và nông dân Việt Nam đối với vấn đề ruộng đất đang bị hủy hoại. Thực tế là bạn không thể kiểm soát những gì bạn không sở hữu. Cho đến khi giai cấp công nhân Việt Nam giành lại được những lực lượng sản xuất này về tay mình, được quản lý theo một kế hoạch hợp lý, dân chủ từ bên dưới lên, thì giai cấp thống trị sẽ ngày càng kéo thêm nhiều đất đai vào nanh vuốt của nó. Quần chúng phải tìm lại truyền thống cách mạng, đánh đổ bọn tư bản ăn bám và tay sai của chúng, xây dựng chế độ xã hội chủ nghĩa trên nền tảng dân chủ công nhân chân chính.” Trả lời RFA, Giáo sư Vũ Tường, Trưởng khoa Chính trị học Đại học Oregon, nói rằng ông không biết tác giả Donovan Eggi là ai nhưng trang web có lưu trữ online nhiều tư liệu về chủ nghĩa Mác cho các nhà nghiên cứu. Theo Giáo sư Vũ, tác giả bài viết này dường như giống với nhiều vị tranh đấu khi họ muốn đổ lỗi về những thất bại của chế độ cộng sản cho những người như Stalin hay Mao Trạch Đông và cho rằng phải quay về với Mác. Nhưng thực tế là người ta không thể phủ nhận vai trò của Mác với tư cách là một nhà lý thuyết, đã đưa ra các ý tưởng mà sau này được các nhà lãnh tụ cộng sản phát triển trên thực tế. Theo Giáo sư Vũ Tường, tác giả đưa ra “giải pháp” nhưng chỉ là những khái niệm rộng nghĩa, không có định nghĩa rõ ràng, như “dân chủ từ bên dưới lên”, “chế độ xã hội chủ nghĩa trên nền tảng dân chủ công nhân chân chính.” Đây là cách nói thường thấy của những người Mác-xít này. Tác giả trình bày đúng về hiện tượng tranh chấp đất đai ở Việt Nam nhưng giải thích sai bản chất. Bản chất của những tranh chấp này không phải là do chủ nghĩa tư bản hiện đại, vì hiện tượng lấy đất của dân với giá rẻ không thông qua thương lượng theo nguyên tắc thị trường đã không tồn tại ở các nước tư bản phát triển. Hiện tượng đó là do những biến thái của chế độ sở hữu ở Việt Nam mà ra. Đất đai thuộc sở hữu toàn dân, do nhà nước thống nhất quản lý thì mặt lý thuyết nó có cái gì ăn khớp với chủ nghĩa xã hội, nhưng khi đưa nó vào Hiến pháp một cách giáo điều thì nó bị biến tướng. “Đất đai thuộc về sở hữu toàn dân” do Nhà nước thay mặt dân quản lý. Nhưng khi áp dụng điều luật này trong thực tế, thì “Nhà nước” ở đây lại là các quan chức địa phương cụ thể. Và theo Luật đất đai hiện hành, cũng như cả phiên bản đang sửa đổi, thì thậm chí quan chức cấp huyện cũng có quyền thu hồi “quyền sử dụng đất” của dân cho các dự án kinh tế có mục đích thương mại. Sự biến thái của chế độ sở hữu đất đai là nguyên nhân chính gây ra hiện tượng kinh tế chính trị như trên. Do đó, con đường sửa đổi là phải xây dựng những công cụ chính trị - xã hội mà các nước văn minh sử dụng tôn trọng quyền sở hữu của dân, doanh nghiệp phải thương lượng với người dân bằng các nguyên tắc thị trường, xã hội dân sự phải được tôn trọng để người dân có công cụ lên tiếng nói trước doanh nghiệp và quan chức nếu họ làm sai, hệ thống tư pháp phải độc lập để hành xử không chịu sức ép của bên nào. Tương tự như GS Vũ Tường, trao đổi với RFA, Tiến sỹ Nguyễn Lê Tiến nhận xét rằng hiện tượng các đại gia bất động sản lấy đất của dân với giá rẻ hơn giá thị trường là điều sai, nhưng không nên tiếp cận vấn đề từ góc độ đạo đức mà cần nhìn nó ở vấn đề cơ chế. “Trong kinh tế thị trường, mua được đất với giá rẻ, bán với giá cao gấp nhiều lần thì ai cũng làm. Đó là điều bình thường. Bất kỳ ai ở trong cơ chế đó đều làm như vậy. Vấn đề nằm ở cơ chế cơ chế cho phép người ta làm như vậy, khuyến khích họ làm như vậy, chứ không phải là vấn đề đạo đức. Thời Việt Nam Cộng Hòa ở Miền Nam Việt Nam trước đây hay ở các nước tư bản phát triển ngày nay, các đại gia bất động sản không được lấy đất của dân với giá rẻ như vậy mà phải thương lượng với chủ đất một cách bình đẳng trước pháp luật. Vì sao họ bắt buộc phải thương lượng? Vì luật pháp công nhận quyền sở hữu đất đai của dân là quyền tài sản. Bộ Dân luật Luật Dân sự VNCH năm 1972 khẳng định như vậy. Họ có cơ chế thực thi luật pháp để bảo vệ quyền tài sản đối với đất đai. Họ có truyền thông độc lập và có quyền lập hội, tức là có các công cụ chính trị để người dân lên tiếng khi những điều luật đó không được tôn trọng.” Hiến pháp và Luật về đất đai của Việt Nam hiện nay đã thiết kế ra một cơ chế khiến cho đất đai trở thành món hàng kinh doanh dễ dàng kiếm lời nhất. Điều này dẫn đến hai hệ quả Một là nguồn lực của nền kinh tế dồn vào bất động sản, và hai là, gây ra những vấn nạn về "thu hồi quyền sử dụng đất" mà bài viết trên trang Marxist của những người “cộng sản” đã nói ở trên. Theo TS. Nguyễn Lê Tiến, điều đó dẫn hệ quả đầu tiên là bất động sản trở thành ngành kinh doanh được hỗ trợ tốt nhất ở Việt Nam, từ cơ chế, chính sách, đến tài chính. Tất cả những điều này bắt nguồn từ cơ chế cho phép quan chức địa phương định đoạt “quyền sử dụng đất” của người dân.
Theo thống kê của Bộ Giáo dục và Đào tạo, hiện có khoảng 190 nghìn du học sinh Việt Nam đang học tập tại nước ngoài. Bộ cũng cho biết mỗi năm người Việt chi 3-4 tỉ USD cho du học - một con số rất lớn. Những con số trên cho thấy việc du học luôn là một xu hướng. Trái lại, việc học trong nước lại mang những định kiến. Đối với tôi, Việt Nam vừa là nơi tôi được sinh ra, vừa là thực tiễn duy nhất tôi có. Trong nỗ lực hiểu thấu nơi mình sống, tôi thấy những nền tảng tri thức ở đại học trong nước là chất liệu suy tư cực kỳ tốt, dù còn nhiều hạn chế. Với những hiểu biết đó, ta nên nhìn nhận thế nào về những định kiến ở việc học trong nước? Việc học ở Việt Nam có những ưu điểm nào không? Vì sao du học? Lý do người trẻ đi tìm cơ hội du học nói lên nhiều điều về văn cảnh giáo dục Việt Nam. Sau khi mở cửa với thế giới vào năm 1986, đất nước ta bước vào thời kỳ toàn cầu hoá sâu rộng. Bước ra khỏi “đêm trường bao cấp”, chúng ta nhìn quốc tế như đại diện cho cái mới, sự văn minh và tiến bộ. Lớp trẻ chúng ta hẳn đã quen thuộc với câu “Việt Nam chúng ta đi chậm hơn so với thế giới”. Giáo dục Việt Nam không đứng ngoài sự so sánh này. Chúng ta đối diện với cơ sở vật chất nghèo nàn. Triết lý cốt lõi thì vẫn chịu ảnh hưởng bởi hệ thống Xô Viết, vốn đã suy yếu và sụp đổ sau chiến tranh Lạnh. Giáo dục phương Tây dần trở thành mô hình phát triển đáng ao ước của các nhà hoạch định chính sách. Song song với toàn cầu hoá, đất nước chúng ta hòa nhịp với nền kinh tế thị trường toàn cầu. Khi khối tư nhân được công nhận quyền làm kinh tế, nhiều người làm giàu nhanh chóng. Họ có đủ khả năng chi trả tiền học phí và sinh hoạt phí đắt đỏ ở Tây Âu và Bắc Mỹ. Trong khi trước đây, du học sinh các nước Đông Âu và Liên Xô phụ thuộc vào các khoản bao cấp chính phủ. Trong bức tranh giáo dục toàn cầu đầy sôi động, giáo dục đại học công lập trong nước không nằm trong ưu tiên của các tầng lớp khá giả. Du học là mục tiêu của nhiều người trẻ. Luôn có một con đường Tôi từ bỏ dự định du học cấp cử nhân vào lớp 12. Cùng năm đó, tình hình tài chính gia đình tôi chạm đáy. Nhìn một phần ba lớp chuyên của mình lúc đó cất cánh, tôi thất vọng tràn trề. Song, tôi cũng tự nhủ rằng nỗi buồn không thay đổi được thực tế. Tôi lao đầu vào ôn thi tốt nghiệp trung học phổ thông quốc gia và đỗ một ngôi trường đại học định hướng nghiên cứu ở trong nước. Tôi thấy mình là một đứa trẻ may mắn. Nỗi thất vọng vì bỏ dở giấc mơ du học nhanh chóng mờ nhạt. Ngôi trường trong nước lấp đầy những khao khát học thuật trong tôi. Được dẫn dắt bởi một nhà giáo tốt, tôi bước chân vào con đường nghiên cứu từ sớm và gặt hái nhiều thành quả. Trong quá khứ, khi nuôi quyết tâm bay đến vùng đất mới, tôi chỉ nghĩ đến kết quả đầu ra rằng mình sẽ có một tấm bằng có sức nặng và kiếm được công việc lương cao để chăm sóc gia đình. Năm tháng trôi qua, tôi nhận ra mục đích của sự học không chỉ là quản trị rủi ro cho tương lai. Học còn là để hiểu bản thân và hiểu những gì xảy ra xung quanh mình, hiểu về đất nước của mình. Là một mảnh đất màu mỡ, càng học về Việt Nam, tôi càng thấy mình chưa hiểu nhiều về Việt Nam. Học còn là để hiểu bản thân và hiểu những gì xảy ra xung quanh mình, hiểu về đất nước của mình. Tuy vậy, chuyện học ở Việt Nam vẫn mang định kiến. Sự đối lập giữa giáo dục trong nước và giáo dục quốc tế như bị thổi phồng Một bên thì bảo thủ và trì trệ, một bên thì bừng sáng trong tiến bộ và cởi mở. Kết quả là dù mỗi năm có hàng ngàn cánh chim bay đi, rất nhiều trong số đó không quay trở về. Định kiến về sinh viên “trong nước” và du học sinh Người từng học ở nước ngoài về có trình độ chuyên môn cao hơn người học trong nước hay không? Câu hỏi này vẫn còn gây nhiều tranh cãi và câu trả lời tuỳ thuộc vào từng tình huống cụ thể. Song mỗi khi trường đại học của tôi tuyển giảng viên, chiếc bằng đại học hoặc thạc sĩ ở nước ngoài tạo ưu thế cực lớn cho các ứng cử viên. Đơn cử như trong thông báo tuyển dụng ngày 19/04/2021 của trường Đại học Kinh tế, Đại học Quốc gia Hà Nội. Trong thông báo này, yêu cầu có văn bằng quốc tế được nhấn mạnh “Có bằng Thạc sĩ và đang học nghiên cứu sinh trở lên; trong đó có ít nhất một bậc học cử nhân/thạc sĩ/nghiên cứu sinh ở các nước tiên tiến, học bằng Tiếng Anh.” Tôi không rõ các nước tiên tiến được văn bản tuyển dụng nhắc đến bao gồm những nước nào. Nhưng có một điều chắc chắn là Việt Nam không nằm trong danh sách đó. Những "điểm trừ" Quả thực, chất lượng đào tạo đại học ở Việt Nam vẫn còn nhiều bất cập. Theo báo Nhân Dân, hệ thống đại học trong nước đang gặp phải ba vấn đề chính. Thứ nhất, chưa có trường đại học Việt Nam nào có mặt trong top 500 trường đại học hàng đầu thế giới, theo tiêu chí của các bảng xếp hạng uy tín. Thứ hai, với nhu cầu học đại học ngày càng cao, nhiều cơ sở giáo dục được thành lập ồ ạt. Song chất lượng cơ sở vật chất, giảng viên và bài giảng chưa đạt yêu cầu. Cuối cùng, các cơ sở giáo dục trong nước thường kém ở khâu định hướng nghề nghiệp cho sinh viên. Cầm bằng trên tay, nhiều cử nhân vẫn lúng túng trong việc sử dụng những công cụ nghề nghiệp cơ bản nhất, như các phần mềm văn phòng hay kỹ năng mềm. Kết quả là trung bình mỗi năm có khoảng 72 nghìn sinh viên thất nghiệp. Những lập luận phía trên là minh chứng cho thấy những giới hạn của môi trường học tập trong nước. Điều đó không nói lên rằng khả năng của tất cả sinh viên trong nước đều không bằng sinh viên quốc tế. Liệu có thể so sánh khả năng của sinh viên trong nước và sinh viên quốc tế? Tuy vậy, ở bình diện vĩ mô, các nhà tuyển dụng sẽ căn cứ vào những hạn chế này để coi du học sinh là những lựa chọn “an toàn” hơn cho các vị trí nhân sự của mình. Kéo theo đó, thị trường việc làm có thể xoáy sâu vào những điểm trừ của sinh viên trong nước thay vì đánh giá công bằng. Câu chuyện của nền giáo dục Mô-típ nhân tài ở Việt Nam "Cấp 1 học tại một trường điểm. Tham gia vào các kỳ thi học sinh giỏi và học lò luyện cuối cấp để đỗ cấp 2, cấp 3 trường chuyên. Bắt đầu cày các văn bằng tiếng Anh và làm hồ sơ du học từ khoảng lớp 11. Sau đó lên kế hoạch mới cho cuộc đời khi đã đặt chân tới những quốc gia xa xôi nằm phía bên kia đường chân trời." Đó là đường học của nhiều đứa trẻ được sinh ra ở thành thị, gia đình tạm gọi là có điều kiện đổ lên. Tôi không phải trường hợp ngoại lệ. Từ bé, bố mẹ đã cho tôi những định hướng cuộc đời rõ ràng theo mô-típ này. Những đứa trẻ có điều kiện gia đình khá giả hơn tôi còn được học ngoại ngữ ở trung tâm từ trước khi vào lớp 1. Bên cạnh đó, nhiều gia đình còn đầu tư cho con đi học các môn năng khiếu từ nhỏ, như âm nhạc và hội hoạ. Bất bình đẳng trong giáo dục Đây mới chỉ là một góc rất nhỏ trong bức tranh giáo dục Việt Nam. Theo thống kê năm 2019 của Vụ giáo dục đại học, Việt Nam là nước có người trong độ tuổi 18 - 29 tham gia học đại học thuộc hàng thấp nhất thế giới, với chỉ Con số này ở Thái Lan và Malaysia lần lượt là 43% và 48%, và tiếp tục tăng khi khảo sát ở các nước phát triển. Trong nhóm tham gia học đại học ít ỏi này, chỉ có một thiểu số có đủ nguồn lực để bước chân vào các hệ thống giáo dục tinh hoa, và đi du học. Câu chuyện của giáo dục nước ta và nhiều quốc gia thu nhập thấp khác vì thế vẫn là câu chuyện của bất bình đẳng xã hội. Với số tiền trung bình để hoàn tất chương trình đại học ở phương Tây là đô la Mỹ, không có nhiều cơ hội du học dành cho con em thuộc các gia đình thu nhập thấp. Đối với những hộ gia đình nghèo, tiền học của các chương trình đại học công lập trong nước còn khó để cáng đáng. Có thể thấy tình trạng bất bình đẳng trong giáo dục ở các nền kinh tế châu Á mới nổi chưa có xu hướng hạ nhiệt. Có đến 53% số du học sinh toàn cầu đến từ châu lục này, theo báo cáo “Không ngừng vươn cao” của Tập đoàn HSBC. Nâng cao chất lượng giáo dục và làm nổi bật những ưu thế của đại học trong nước, vì thế là một trong những phương án giúp gia tăng cơ hội vào đại học cho con em của những gia đình không khá giả. Vậy những ưu điểm của đại học trong nước là gì? Học phí rẻ hơn nhiều! Ưu điểm đầu tiên cần được nhắc tới là học phí. Đương nhiên, có sự chênh lệch về học phí giữa các trường công được nhận bao cấp nhà nước như hệ thống Đại học Quốc gia Việt Nam, và các trường thực hiện cơ chế tự chủ tài chính. Nhưng ngay cả ở các trường tự chủ, học phí cũng rẻ hơn rất nhiều so với du học. Như vậy, nói không ngoa thì chi phí đào tạo của các trường nhận bao cấp nhà nước là phù hợp đối với đại bộ phận sinh viên Việt Nam. Nhưng chất lượng thì cũng không hề "rẻ" đâu Ở Việt Nam hay bất kỳ đâu trên thế giới, chất lượng các trường đại học chỉ là tương đối. Có những trường tốt, và có những trường kém hơn. Sự thật là ngay cả khi chất lượng trường học tệ thì chất lượng của nhiều giảng viên vẫn tốt. Chúng ta cần nhìn nhận công bằng rằng không thể đánh đồng giữa chất lượng của toàn bộ hệ thống giáo dục với chất lượng của từng giảng viên. Không có công thức chung nào cho việc dạy kiến thức và tiếp thu kiến thức. Nếu bạn đủ cam kết với ngành học và sẵn sàng tiếp cận những chuyên gia trong lĩnh vực đó, bạn có thể tìm thấy những người thầy tốt. Ở Việt Nam hay bất kỳ đâu trên thế giới, chất lượng các trường đại học chỉ là tương đối. Trường đại học trong nước đã trao cho tôi nhiều tri thức. Ngoài kiến thức trên trường, tôi học từ những trao đổi cá nhân với thầy cô, từ những email trao đổi học liệu và các bài báo học thuật. Tôi cũng học được nhiều từ những dự án nghiên cứu được cùng tham gia. Với đặc thù của nghiên cứu hàn lâm, tôi cho rằng nhà trường phải là một nơi hào phóng với tri thức. Sự hào phóng này có thể được hiểu theo nghĩa, nhà nghiên cứu được chìm đắm trong thế giới học thuật của riêng họ, thay vì chạy theo những nhu cầu cơm áo gạo tiền của thị trường. Đối với người ngoài, một số đề tài hoặc ý tưởng nghiên cứu có thể điên rồ và phi thực tiễn, song chúng là những nền tảng lý thuyết quan trọng cho tương lai. Những trường đại học tốt nhận thức được điều này. Học lý thuyết cũng có thể là một điểm tốt! Nhiều người phê phán đại học Việt Nam thiên về lý thuyết hơn là thực hành. Đối với tôi, đó lại là một điểm tốt, đặc biệt với khối ngành Xã hội và Nhân văn. Lý thuyết không có nhiệm vụ mô tả những quy luật tuyệt đối của thế giới. Nó là lăng kính để ta nhìn cuộc đời với nhiều góc độ và màu sắc hơn. Ưu tiên đào tạo về lý thuyết, tức là coi trọng việc giáo dục nên những thế hệ người học biết hoài nghi và cẩn trọng trước khi hành động. Tôi trân trọng những điểm tốt của giáo dục Việt Nam. Tôi cũng nhận thức được rằng chúng không khoả lấp được những nhược điểm còn tồn đọng. Phát triển một nền giáo dục tốt hơn trong tương lai vừa có nghĩa là tạo ra những điểm cải tiến mới, vừa có nghĩa là bảo tồn và phát triển những điều chúng ta đã làm tốt trong quá khứ. Kết Tóm lại, dù có nhiều hạn chế, đại học Việt Nam vẫn cung cấp cho ta những chất liệu học thuật quý giá để hiểu hơn về chính mình và thế giới quanh ta. Hơn nữa, nếu như được đánh giá nghiêm túc, chính những trải nghiệm trong nước định hình nên con đường ta sẽ đi sau này, cũng như vị trí của ta trong khung cảnh toàn cầu. Có điều, những nỗ lực tự thân là chưa đủ để hoàn thiện hơn hệ thống giáo dục đại học Việt Nam. Vì thế, có thể tôi vẫn sẽ lựa chọn du học ở những bậc học cao hơn. Dẫu vậy, tôi trân trọng và ghi nhận công bằng những trải nghiệm và tri thức mà môi trường trong nước đã trao cho mình.
Hai câu chuyện học kể sau đây cho thấy những yếu tố chính để Nam Định thành đất học.* Câu chuyện thứ nhấtSự học ở làng Hành Thiện, xã Xuân Hồng huyện Xuân Trường là một minh chứng. Ngôi làng cổ - đất chật người đông - này từ xưa đã nổi tiếng với câu ca “trai học hành, gái canh cửi”. Mỗi khi trong làng có người đỗ đạt, làng thường tổ chức lễ khen thưởng trang trọng. Điều này đã động viên, khích lệ tinh thần học tập của lớp lớp “nho sinh” trong làng. Gia đình nào không có tiền cho con ăn học thì mọi người trong gia đình, dòng tộc và xóm giềng tự dạy cho nhau, người biết dạy cho người chưa biết, người biết nhiều dạy cho người biết ít... Từ đó hình thành một truyền thống học tập mà ít nơi có đó từ xưa Hành Thiện đã có nhiều người đỗ đạt, làm quan trong các triều đình và nay làng lại tiếp tục sản sinh cho đất nước nhiều người con ưu tú. Hiện, 80% số hộ trong làng có người đỗ đại học, cao đẳng trở lên, trong đó có 88 giáo sư, phó giáo sư, 60 tiến sĩ, trên 800 cử nhân, nhiều tướng lĩnh quân đội, anh hùng lực lượng vũ trang, anh hùng lao động...Có thể nói, nét đặc trưng, truyền thống ở mỗi người dân Nam Định là hiếu học, chăm lo cho sự học. Ở bất cứ nơi nào trên mảnh đất Nam Định, từ thành thị đến nông thôn, từ ngõ xóm đến khối phố, trong nhà thờ hay nhà chùa đều sôi nổi những hoạt động chăm lo cho sự học. Mỗi gia đình, mỗi dòng họ đều trở thành môi trường giáo dục hiệu quả và lành Định là tỉnh đầu tiên trong toàn quốc thành lập Hội khuyến học. Phong trào khuyến học, khuyến tài ở Nam Định phát triển liên tục, sôi nổi, sâu rộng và đều khắp. Tổ chức Hội khuyến học đã phát triển ở khắc các thôn, làng, khu dân cư, cơ quan, doanh nghiệp, trường học, dòng họ, nhà chùa, xứ đạo... với hơn chi hội, thu hút gần hội viên, chiếm 13% dân tỉnh cũng có gia đình, chiếm 38% tổng số gia đình trong toàn tỉnh được công nhận là gia đình hiều học; gần dòng họ được công nhận đạt tiêu chuẩn dòng họ khuyến khọc... Hoạt động khuyến học đã khơi dậy, hội tụ các tiềm lực để đẩy mạnh phát triển giáo dục, đào tạo, xây dựng xã hội học tập.* Câu chuyện thứ haiCách đây gần 20 năm, khi mà “tiêu cực trong thi cử và bệnh thành tích trong giáo dục” đang trở thành “căn bệnh” và chưa được đề cập đến thì ở trường Trung học phổ thông Giao Thuỷ A huyện Giao Thuỷ đã thực hiện cuộc vận động “học thực chất, thi thực chất”. Điều đầu tiên trường THPT Giao Thủy A thực hiện là đánh giá lại chất lượng dạy và học, qua đó hàng loạt các chỉ tiêu bị tụt giảm so với trước và thấp hơn nhiều so với các trường THPT khác trên địa bàn này bước đầu thậm chí còn tạo “cú sốc”, nhưng nó như một liều thuốc đặc trị để chấn chỉnh lại việc dạy và học của trường kỷ cương trong nhà trường được thiết chặt; giáo viên phải nâng cao trình độ, đổi mới phương pháp giảng dạy; học sinh phải có thái độ nghiêm túc, chăm ngoan. Nhờ đó, chất lượng giáo dục ở trường THPT Giao Thuỷ A được nâng lên trông thấy, trở thành lá cờ đầu của ngành giáo dục Nam Định sau trường THPT Lê Hồng cử như trong năm học 2008 - 2009, tại kỳ thi tốt nghiệp THPT, 100% học sinh của trường đỗ tốt nghiệp; tại kỳ thi đại học, trường xếp thứ 53 toàn quốc về tỷ lệ học sinh thi đỗ đại học và xếp thứ 18 toàn quốc về số thí sinh có điểm cao có tới 32 thí sinh đạt 27 điểm trở lên... Bài học thực tế ở trường THPT Giao Thuỷ A đã được nhân rộng ra toàn vậy, ngoài truyền thống hiếu học, Nam Định xác định công tác xây dựng đội ngũ giáo viên, cán bộ quản lý và lập kỷ cương, nền nếp trong giáo dục là khâu quyết định đến chất lượng dạy và học. Với phương châm này, tỉnh luôn chăm lo xây dựng đội ngũ giáo viên giỏi về nghiệp vụ, có tâm huyết với làm được điều này, sau khi tuyển chọn, Nam Định tiếp tục bồi dưỡng và có chính sách đãi ngộ để giáo viên yên tâm, chăm lo công tác. Ngoài thực hiện đúng, đủ các chế độ chính sách của Nhà nước đối với cán bộ, giáo viên, Nam Định tổ chức khen thưởng kịp thời mỗi khi cán bộ, giáo viên đạt thành tích xuất sắc; nhiều trường còn tổ chức khám sức khoẻ định kỳ và nghỉ dưỡng tại chỗ cán bộ, giáo viên; hỗ trợ giáo viên đi học tiến sĩ, cao học... góp phần động viên, tạo điều kiện cho đội ngũ cán bộ, giáo viên yên tâm, phấn khởi công đó hiện nay, gần 100% giáo viên ở Nam Định đạt trình độ chuẩn và trên chuẩn. Cùng với xây dựng đội ngũ giáo viên giỏi chuyên môn nghiệp vụ, tâm huyết với nghề, Nam Định xây dựng môi trường giáo dục trong sạch, kỷ cương. Đặc biệt, Nam Định là một trong những tỉnh đi đầu trong việc thực hiện “hai không”. Nhiều năm qua, tình trạng vi phạm trong giáo dục ở Nam Định giảm đáng kể. Gần đây nhất, tại kỳ thi tốt nghiệp THPT năm 2009, toàn tỉnh Nam Định không có cán bộ quản lý, giáo viên, học sinh, học viên nào bị xử lý kỷ những yếu tố trên, chất lượng giáo dục ở Nam Định ngày càng được nâng cao. Hàng năm, tỷ lệ học sinh lên lớp, học sinh khá giỏi, học sinh hạnh kiểm tốt luôn đạt cao; tại các kỳ thi quốc gia như tốt nghiệp THPT, thi học sinh giỏi... Nam Định đều đứng trong tốp nhất, nhì, ba toàn quốc; nhiều em đạt các giải quốc tế; tỉnh đã hoàn thành phổ cập giáo dục trung học cơ sở...Kết quả đó không chỉ là kế thừa truyền thống lâu đời, sự chăm lo của toàn xã hội cho sự nghiệp giáo dục mà còn phản ánh quá trình lao động sư phạm nghiêm túc, đầy trách nhiệm của đội ngũ nhà giáo và sự miệt mài học tập cuả các em học sinh ở Nam Định. Năm học mới 2009 - 2010 đã đến, với cách “gieo mầm” ấy, tin rằng ngành giáo dục Nam Định sẽ có thêm một mùa bội Văn TiếpTTXVN
đất học ở việt nam